…
Ngày 3: Mã Pí Lèng
Chúng tôi bắt đầu ngày thư ba của hành trình vẫn bằng món bánh cuốn miền núi mà chúng tôi thống nhất sẽ không nên ăn đến lần thứ ba để vẫn nhớ về nó như một món ăn ngon. Ăn xong chúng tôi dạo phố cổ Đồng Văn và chợ Đồng Văn cũ để tìm vài góc chụp ảnh và thưởng thức café ở một ngôi nhà cổ kính rất đẹp nằm sát chân núi. Chúng tôi được cảnh báo rằng lối đi Cao Bằng khoảng gần 300km đường rất xấu, đoạn đầu qua Mã Pí Lèng hiểm trở, đoạn qua đất Cao Bằng thì đang thi công cực kỳ xấu, nên chúng tôi quyết định sẽ không ghé đâu để kịp đến nơi trước khi trời tối.
Bạn Thắm đề xuất nên mua một ít sữa tươi, bánh kẹo để làm quả cho bọn trẻ các dân tộc trên đường, lũ trẻ mà từ hôm lên đây chúng tôi gặp khá nhiều ngoài đường, luôn hồn nhiên và đáng yêu, dù điều kiện sống rất cực khổ, cực khổ đến mức không thể tượng tượng được. Việc đi cho quà lũ trẻ làm chậm hành trình của chúng tôi rất nhiều, nhưng bù lại chúng tôi cảm thấy con đường thật vui và thật ý nghĩa.
Đầu tiên là đỉnh Mã Pí Lèng chìm trong mây mù, Mã Pí Lèng là nơi chúng tôi muốn đến nhất, đến để xem mức độ hùng vĩ của con đường Hạnh Phúc, nơi được mệnh danh là vua của những ngọn đèo Việt Nam. Tôi trích wiki thông tin về Mã Pí Lèng để các bạn nào chưa xem thì tìm hiểu:
“Mã Pí Lèng là tên gọi theo tiếng Quan Hỏa chỉ “sống mũi con ngựa” theo nghĩa đen. Nhưng theo nghĩa bóng tên gọi này chỉ sự hiểm trở bậc nhất của đỉnh núi, nơi những con ngựa cái leo lên đến đỉnh trụy thai mà chết, nơi dốc cao đến mức con ngựa đi qua phải tắt thở, hoặc đỉnh núi dựng đứng như sống mũi con ngựa.
Đỉnh Mã Pí Lèng thuộc ba xã Pải Lủng, Pả Vi và Xín Cái (Mèo Vạc, Hà Giang) trong cao nguyên đá Đồng Văn có độ cao khoảng 2000m so với mặt nước biển, được tạo nên bởi một loạt trầm tích gồm đá vôi, đá phiến ánh, đá vôi silic chứa các hóa thạch cách đây khoảng 426 triệu năm, bao gồm trong đó nhiều vết trượt và vết nứt do các hoạt động tạo núi gây ra. Cảnh quan khu vực này lởm chởm đá dựng, trong đó vực sâu sông Nho Quế như xẻ đôi một bên là đỉnh Mã Pí Lèng và một bên là Săm Pun (Sam Pun), nơi có cột mốc biên giới và cửa khẩu thông thương từ Xín Cái sang Điền Bồng, Trung Quốc. Các học giả Pháp, từ cả trăm năm trước, đã gọi đỉnh Mã Pí Lèng nói riêng và Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn nói chung là một “Tượng đài Địa chất”. Đi trên đèo Mã Pí Lèng nhìn xuống vực sâu, con sông Nho Quế chỉ bé như một sợi chỉ mà muốn xuống đến mặt nước của sông phải mất hơn một ngày đường.
Lịch sử dựng đường
Trước những năm 1960 hơn 8 vạn người Mèo thuộc 4 huyện ở phía sau các dãy núi hùng vĩ của cao nguyên Đồng Văn không có khái niệm con đường. Bao đời họ chỉ biết vượt Mã Pí Lèng bằng cách đóng cọc treo dây trên vách đá để bò qua chín khoanh đèo hun hút, lởm chởm đá tai mèo dựng đứng. Dốc Chín Khoanh leo tới đỉnh Mã Pí Lèng còn gọi là con dốc của Giàng (Trời). Chính nơi đây từng là giang sơn nơi Vua Mèo treo người không phục mình lên cột cho đến chết và sau vua Mèo là thổ phỉ hoành hành, lấy cán bộ mở đường làm bia tập bắn.
Nhằm mục đích giúp vùng núi tiến kịp vùng xuôi, năm 1959, sau 5 năm kể từ năm hòa bình lập lại ở miền Bắc Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Khu ủy Việt Bắc quyết định mở đường Hà Giang-Đồng Văn-Mèo Vạc. Con đường này, về sau mang tên Đường Hạnh Phúc, được khởi công vào ngày 10 tháng 9 năm 1959 với sự tham gia của hàng vạn thanh niên xung phong và bà con thuộc 16 dân tộc Mèo, Tày, Dao, Pu Péo, Lô Lô v.v. của 8 tỉnh Cao Bắc Lạng (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn), Hà Tuyên Thái (Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên), Hải Hưng, Nam Định. Sau 6 năm xây dựng với 2.946.321 lượt ngày công đục khoét trên 2.899.638m3 đá mà hầu hết trong đó là lao động thủ công không có sự hỗ trợ của máy móc, con đường được hoàn thành hoàn thành vào 15 tháng 6 năm 1965.
Qua hơn 1.000 ngày đầu tiên con đường được thi công, cả vạn thanh niên xung phong và người dân các dân tộc vấp phải một bức tường thành đá khổng lồ dựng đứng là đỉnh Mã Pí Lèng. Để vượt bức tường đá này cần xây dựng một đường đèo men theo vách núi ở độ cao khoảng 1.600m. Tuy nhiên, khó khăn đến mức trong giai đoạn đầu nhằm mở một vỉa đường nhỏ mang tên “đường công vụ” rộng khoảng 40cm trên vách đá (để công nhân về sau có chỗ đặt chân trên đó thi công phá đường rộng ra), 17 thanh niên trong đội cảm tử (giai đoạn này gọi là “Đội Cơ Dũng”) phải treo mình bằng dây trên các vách đá ròng rã trong 11 tháng đục đẽo hoàn toàn bằng bàn tay trần và những phương tiện thủ công. Nhằm thể hiện lòng quyết tâm và tinh thần đối diện với hiểm nguy, các công nhân đã đặt tại lán của mình 10 chiếc quan tài và truy điệu sống trong từng ngày làm việc.
Sau khi hoàn thành, Đèo Mã Pí Lèng tuy không dài nhưng là con đèo hiểm trở bậc nhất ở vùng núi biên viễn phía Bắc, được ví như “vua” của các con đèo Việt Nam. Cung đường đèo ban đầu được mở chỉ đủ rộng chỗ cho người đi bộ và xe ngựa thồ, về sau được mở rộng hơn cho ô tô nhưng vẫn rất nguy hiểm vì những đoạn cua tay áo và mặt đường lổn nhổn đá hộc, hai ô tô rất khó tránh nhau. Nằm giữa cao nguyên Đồng Văn trơ trọi đá, một bên là vách núi Mã Pí Lèng cao dựng đứng và một bên là vực sâu sông Nho Quế, phía Bắc và Đông Bắc đèo trải dài trong tầm mắt là hàng ngàn quả núi đá trọc màu xám trùng trùng điệp điệp lơ thơ cây cối.
Cung đường Mã Pí Lèng nối liền Đồng Văn và Mèo Vạc trong đó có đoạn đèo 9 khoanh dài 20km về sau trở thành một kỳ tích mà nhiều người ví như một Vạn Lý Trường Thành của Việt Nam hay Kim Tự Tháp của người Mèo. Trên đỉnh đèo Mã Pí Lèng, cũng là nơi cao nhất của Đường Hạnh Phúc, hiện có một trạm dừng chân cho du khách ngoạn cảnh và tại đây đặt một tấm bia đá ghi lại những dấu ấn trong quá trình xây dựng đường đèo.”
một người đi trong mây
con sông Nho Quế nhỏ như sợi chỉ phía dưới
bạn có nhìn thấy con đường?
chia quà ngay trên đỉnh đèo
bên bia đá kỷ niệm
một đứa trẻ đứng chơi bên bờ vực
lại mù sương
kiểu gì đồng bào cũng canh tác được
đôi bạn trẻ trên đèo
bắt đầu có chỗ rộng rãi hơn để canh tác
đường về Mèo Vạc xa xôi
một bản nhỏ nằm giữa thung lũng, cạnh một con suối trong xanh
uống sữa mau lớn nào các cháu
ghé một nhà bản Nùng
từ từ em nào cũng có, đừng nhăn nhó em có em không
đi một mình cũng có quà
chị địu đi cũng có quà
đủ chưa các con?
ở nhà cũng có quà
lại một dòng xanh
vùng cao nên lúa cấy trên mái nhà
cầu treo quá suối, có cây gì trổ lá xanh nhức mắt
và một chàng trai đánh cá ở hạ nguồn
lại một bản nhỏ ven đường
mẹ điệu, con cũng điệu
trồng lúa không được thì trồng ngô (rượu ngô ngon phết)
tôi nghĩ cái này là hình thức mộ táng trong hang động, có rất nhiều, hôm nào hỏi lại chị Hậu KC
diệt cỏ tận gốc
một bản nhỏ khác
bắt đầu vào đường xấu
hơi xấu thôi
à không, cực xấu, chỉ 5km/h thôi
Cao Bằng chưa lên thành phố, vẫn đương là Thị Xã thôi, nhưng chúng tôi thật bất ngờ vì Cao Bằng khá đẹp và hiện đại, hơn cả Hà Giang. Buổi tối chúng tôi tìm đến quán lẩu khá nổi tiếng nằm bên bờ ngã ba sông, ở đây không có lẩu nhỏ nên cả ba chúng tôi phải làm một cái lẩu to đùng với rất nhiều rau và thịt. Chúng tôi gọi một chai rượu gạo ngâm chuối khá nặng để thay cho món rượu ngô (tầm 30 độ) nhàn nhạt hai hôm nay. Vợ chồng chủ quán lẩu khá dễ thương, chồng tên Tuấn Anh dân Cao Bằng, còn vợ mới cưới thì quê Hà Giang, anh chồng luôn miệng tư vấn cho chúng tôi về đường đi Bản Giốc, Pắc Pó và Ba Bể, thậm chí còn định gọi cho giám đốc rừng quốc gia Ba Bể để đón chúng tôi…